Lưỡng quốc khôi nguyên người Việt và tài ứng đối khiến vua quan nhà Thanh thán phục

Nguyễn Đăng Cảo tự là Bá Thành, hiệu Tùng Tiên, sinh năm 1619. Năm 28 tuổi, ông thi đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Thám hoa (Khoa thi năm đó không lấy Trạng nguyên và Bảng nhãn, nên Thám hoa là đỗ đầu). Năm sau ông lại đỗ đầu khoa Đông các và làm quan Đông các đại học sĩ.

Ông là người cương trực, không theo thói đời nên bị nhiều người ghen ghét, không được trọng dụng, làm quan chưa đầy 3 năm thì bị bãi chức. Nhưng do trí thông minh, tài ứng đối siêu phàm nên mỗi khi có sứ nhà Thanh sang hạch sách, vua Lê đều vời ông ra tiếp đãi, ứng đối. Tài năng đối đáp, văn chương sắc bén của ông đã làm cho sứ nhà Thanh phải kính nể. Sử sách và trong dân gian còn lưu truyền nhiều mẩu chuyện thú vị về Nguyễn Đăng Cảo, bậc kỳ tài và cương trực, ngang tàng hiếm có này.

Học tài đỗ cao nhưng ngang tàng

Nguyễn Đăng Cảo đi thi 3 kỳ ở huyện đều đứng đầu. Khi về tỉnh dự thi vấn đáp, quan trường thi thấy Đăng Cảo vào không quỳ lạy mà chỉ chào, tỏ vẻ không hài lòng nên đã hỏi những câu hỏi hiểm hóc của Kinh Lễ, ông đều trả lời trôi chảy. Nhưng quan Tả Tham chính còn chất vấn thêm. Đăng Cảo bèn nói: Theo điều lệ của triều đình, chỉ được hỏi 6 câu, nay các ông đã hỏi tôi đến 12 câu rồi, tôi biết nhưng không trả lời nữa. Quan Hiến sát thấy vậy bèn nói nhỏ với viên quan Tham chính rằng: Đây là một nhân tài lớn. Khoa này Đăng Cảo đỗ giải Nguyên (đỗ đầu Hương Cống), khi ấy mới 24 tuổi.

Trước khi vào thi Hội và thi Đình ông đã tiên đoán trước kết quả đỗ đạt. Khoa thi năm 1646, ngày thi đến nơi, người em họ của ông là Nguyễn Đăng Minh (là cha của lưỡng quốc trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo sau này) lo lắng cho rằng khoa này có nhiều người giỏi, chưa chắc hai anh em đã đỗ. Đăng Cảo liền nói rằng: Chú cứ yên tâm, khoa này triều đình lấy nhất giáp chắc là về phần ta, thứ hai về ông bạn người Thanh Hóa, thứ ba là đệ tam giáp về phần chú. Kết quả kỳ thi đúng như dự đoán của Đăng Cảo: Ông đỗ đệ nhất giáp, còn Đăng Minh đỗ đệ tam giáp tiến sĩ. Ngày vào điện nhà vua thi, Đăng Cảo sức học uyên thâm, văn lý hùng hồn đáng bậc trạng nguyên, nhưng vì triều thần thấy ông là người ương ngạnh, ngang tàng nên chỉ chấm đỗ đến Thám hoa.

Lưỡng quốc khôi nguyên: Tài năng ứng đối khiến vua quan nhà Thanh khâm phục

Một lần, Đăng Cảo nhận mệnh nhà vua mang lễ vật lên biên giới gặp sứ nhà Thanh để tìm cách ngăn quân Thanh kéo về Thăng Long. Đến Lạng Sơn, sứ thần nhà Thanh ra câu đối rằng:

“Điểu nhập phong, thực tận trùng nhi hoá phượng” (鳥入風,食盡蟲而化鳳)

Nghĩa là: Chim vào gió, ăn hết sâu mà hóa phượng.

Cái khó ở vế đối này là chữ “phượng” (鳳) do chữ “điểu” (鳥) viết trong lòng chữ “phong” (風), bỏ đi bộ “trùng” (虫) mà thành.

Đăng Cảo liền đối rằng:

Nhân cư nham, đả phi thạch dĩ thành tiên (人居岩,打飛石以成仙)

Nghĩa là: Người ở vách núi, đánh bay đá để thành tiên.

Chữ “nhân” (人) đứng bên cạnh chữ “nham” (岩), bỏ chữ “thạch” (石) thành chữ “Tiên” (仙).

Vế đối hoàn chỉnh, đối từng chữ, từng thanh. Câu đối của sứ thần Thanh tỏ cái cao ngạo của quan nước lớn, ví là phượng hoàng, một trong tứ linh. Vế đối của Đăng Cảo không những hoàn chỉnh về câu chữ, bằng trắc, mà còn có ý nghĩa, khẩu khí áp đảo, khiến sứ thần nhà Thanh e dè. Phượng hoàng là linh vật nhưng Tiên nhân lại có thể sai khiến rồng phượng, cưỡi rồng cưỡi phượng bay đi.

Đến cửa ải, sau một tuần mưa dầm, bỗng nhiên trời hửng nắng, sứ nhà Thanh mang sách ra phơi, Đăng Cảo cũng kê gối trải chiếu rồi nằm phơi bụng mình ra. Sứ Tàu ngạc nhiên lắm hỏi: Sao ông làm như vậy? Ông trả lời: Sứ thần Thượng quốc phơi sách, tôi phơi bụng (ý nói có sách ở trong bụng). Sứ Tàu thán phục, nhưng vẫn thử tài thêm rằng:

– Sách “Đại học” bản chính bị đốt mất rồi, phiền ngài viết lại cho thì tốt quá?

Đăng Cảo nhận lời và ngồi viết ngay lại từ chính vận đến chú giải lớn, nhỏ y như bản gốc, sứ Tàu hết sức kinh ngạc.

Sau đó, vua Thanh liền cho vời ông tới bảo làm bài phú giải thích cho chư hầu về việc róc tóc. Đăng Cảo làm xong sớm liền trình lên vua Thanh. Xem xong vua Thanh phê rằng: Lời gọn, ý tận và sâu sắc, phong thêm cho Đăng Cảo làm Khôi nguyên Bắc triều.

Theo sách Sứ thần Việt Nam của tác giả Nguyễn Lan Phương, có lần, sứ nhà Thanh sang Đại Việt. Khi đến Xương Giang, người này dừng lại, sai quân đưa đến triều đình ta một vuông gấm, trên vẽ ba nét ngang rất lớn và nói: “Nếu Đại Việt không giải được, sứ đoàn sẽ không vào Thăng Long”.

Cả triều đình không ai hiểu ý sứ thần muốn gì, phải về Tiên Du, Bắc Ninh mời Nguyễn Đăng Cảo vào kinh giảng. Đăng Cảo nghe xong nói:  “Cái trò đánh đố chữ nhỏ nhặt ấy có gì ghê gớm đâu”.

Sau đó, ông lấy bút quét một nét sổ trên giấy cho sứ giả mang về tâu vua, dặn cứ thế đưa cho sứ Thanh. Quả nhiên, sứ nhà Thanh rất phục và đi tiếp vào Thăng Long.

Nhà vua không hiểu ý của sứ thần ra sao, đồng thời cũng chưa biết vì sao Đăng Cảo viết vậy mà sứ nhà Thanh đồng ý vào Thăng Long, nên lại cho người về quê hỏi Đăng Cảo.

Ông trả lời sứ của triều đình rằng: “Ở trong sách Kinh Dịch có quẻ ‘Càn’  (☰) là ba nét ngang, thêm một nét sổ thì thành chữ ‘Vương’ (王). Họ muốn sang phong vương cho vua ta đó thôi”. Cả triều đình nghe ra, vô cùng nể phục Nguyễn Đăng Cảo.

Nhà vua thấy ông mẫn tiệp, liền cử làm chánh sứ sang Trung Quốc đáp lễ. Khi giáp mặt, thấy ông già cả, vua nhà Thanh liền ra câu đối:

“Lão khuyển lạc mao, do hướng đình tiền phệ nguyệt” (老犬落毛,猶向庭前吠月)

Nghĩa là: Chó già rụng lông, còn đứng ra sân mà sủa trăng.

Biết đó là ý miệt thị của vua nhà Thanh, Nguyễn Đăng Cảo liền đối lại:

“Tiểu oa đoản cảnh, mạn cư tỉnh để khuy thiên”. (小蛙短頸,謾居井底窺天)

Nghĩa là: Ếch con ngắn cổ, ngạo mạn ngồi đáy giếng coi trời.

Vế đối có nội dung ngang tàng, ý mỉa mai, xem thường cả triều đình lẫn vua Thanh không hiểu biết, bụng dạ hẹp hòi. Đây là vế đối quá chuẩn, thể hiện được trí tuệ và bản lĩnh của người Việt. Từ đó, vua quan nhà Thanh không dám coi thường sứ nước Nam nữa. Vua Thanh còn sai quan tiễn sứ đoàn ra về rất trịnh trọng.

“Địa linh, nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Đăng Cảo”

Năm 1653 đời vua Lê Thần Tông, nhà Thanh lại sai sứ mang chiếu chỉ sang cùng 10 vuông gấm, gói các loại mũ xiêm cùng quần áo. Vua Lê không hiểu ý định của sứ thần, lại phải mời ông về kinh.

Ông xem xong các đồ vật rồi tâu lên vua rằng đây là trang phục của người Trung Hoa, họ gửi sang tỏ ý muốn ta phải theo thiên triều, lệ thuộc vào họ, ăn mặc theo nhà Thanh, phải cắt tóc để đuôi sam, khác với nhà Minh. Ta nên trả lại bộ quần áo này và đưa lại cho họ y phục dân tộc để họ thấy ta không chịu chấp nhận.

Vua liền cử ông lên biên giới tiếp và tìm cách đối phó với sứ thần nhà Thanh. Ông cho lấy một tấm lĩnh gói váy, áo, yếm… để trong hòm kín đẹp, sai quân lính mang vào nhà công cán cho sứ Thanh. Sau đó, ông đã phản bác ý định của vua Thanh.

Ông còn làm bài “Giải chư hầu” phản bác những nhận định sai lầm về các nước chư hầu gửi sứ Thanh mang về dâng vua, khẳng định chủ quyền dân tộc.

Vua Thanh xem xong không giấu nổi sự khâm phục liền phán: “Địa linh, nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Đăng Cảo”.

Triêu Lộ

Tin bài liên quan