Ngày nay, không ít người đặt nặng tư tưởng và sự lệ thuộc vào tiền. Họ có quan điểm cho rằng, có tiền mới có cuộc sống hạnh phúc, có tất cả những gì mình muốn. Vì thế, họ theo đuổi tiền, tìm mọi cách để có được tiền.
Tuy nhiên, người ta lại phát hiện ra rằng, mặc dù có người đã rất cố gắng, nỗ lực, rất phấn đấu nhưng quanh năm suốt tháng vẫn sống trong khó khăn, túng bấn. Có người muốn làm giàu một cách nhanh chóng, thậm chí vay tiền nặng lãi để làm ăn, nhưng kết quả lại thua lỗ hết cả vốn và tiền vay. Cuộc sống càng rơi vào khốn khó hơn khi phải trả thêm khoản nợ. Có người vì thế mà cửa nát nhà tan.
Văn hóa hiện đại, dạy bảo và khuyến khích con người phải tranh, phải đấu thì mới có được những điều mình muốn. Nhưng vì sao mà “đấu” mãi không được? “Tranh” mãi không được tiền đồ tốt đây? Đó là bởi vì con người có “phúc phận” và “phúc khí”. Vậy, “phúc phận” và “phúc khí” của một người rốt cuộc là từ đâu mà đến?
Câu chuyện trong văn hóa truyền thống sau đây có thể chúng ta sẽ tìm ra những nguyên nhân và kết quả cho câu hỏi trên.
Phạm Trọng Yêm xuất thân rất nghèo, lúc còn trẻ ông vô cùng khốn khó, cuộc sống khó khăn gian khổ. Ông nghĩ thầm rằng mai sau lớn lên nếu có thể hơn người, nhất định phải cứu tế những người nghèo khó. Sau này làm tới chức Tể Tướng, liền đem bổng lộc lấy ra để mua ruộng đất, cấp cho những người nghèo không có ruộng để cày cấy và trồng trọt.
Ông còn cung cấp cho người nghèo cơm gạo, quần áo. Phàm là bất kể ai mà có việc lớn như hôn sự hay tang sự, ông còn trợ cấp tiền cho họ. Cứ như thế, ông dùng hết tiền thu nhập của mình để chu cấp cho hơn ba trăm gia đình ở quê hương.
Có một lần ông mua một ngôi nhà ở Tô Châu. Một thầy phong thủy đã ra sức khen ngợi ngôi nhà này có phong thủy thật là tốt, đời sau nhất định sẽ làm quan to.
Phạm Trọng Yêm nghĩ thầm, nếu nhà này có phong thủy khiến cho đời sau vinh hiển như thế chi bằng ta đổi thành học đường thì hơn, để cho muôn dân trăm họ Tô Châu từ sau có thể vào đây mà học. Tương lai những thế hệ sau này đều có người tài đức, có danh vọng và vinh hiển, chẳng phải là họ cũng được hưởng phúc mà đất nước cũng càng có lợi hay sao?
Vậy là ngay lập tức ông đem ngôi nhà của mình quyên góp, sửa sang thành học đường. Thực hiện điều ước ấp ủ từ lâu cho những trẻ em nghèo khổ có thể được đi học.
Tục ngữ có câu: “Giàu không quá ba đời”. Nhưng gia tộc họ Phạm lại hưng thịnh đến tám tăm năm. Bốn người con của Phạm Trọng Yêm đều có tài có đức, làm tể tướng và quan lớn.
Con cháu của Phạm Trọng Yêm luôn ghi nhớ gia huấn của tổ tiên là: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi nhạc nhi nhạc” (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ) và “Tích đức hành thiện”. Bởi thế mà đời sau của Phạm Trọng Yêm một mực hưng thịnh cho đến mãi những năm đầu của Trung Hoa dân quốc mà vẫn không suy.
Đào Chú là người huyện An Hóa, Hồ Nam. Ông là quan lớn được Hoàng đế Đạo Quang triều nhà Thanh rất trọng dụng. Ông từng ở kinh thành đảm nhận chức quan Hàn Lâm Viện, sau đó được thăng chức lên làm quan Ngự sử.
Về sau, ông đảm nhận chức vụ Binh bị đạo (quan đặc trách chỉnh quân) ở Xuyên Đông, Sơn Tây bố chính sử (chức quan thi hành chính trị), An Huy bố chính sử, An Huy tuần phủ, Giang Tô tuần phủ…
Năm Quang Đạo thứ 10, ông làm Thái tử Thiếu bảo, Lưỡng Giang tổng đốc. Trong thời gian làm quan, ông quản lý tài sản, thụ lý xử án, cứu tế dân khi có thiên tai, khai thông vận chuyển đường sông, khai mở vận chuyển đường biển, phát triển giáo dục hưng thịnh. Tính cách nghiêm khắc, chính trực và những thành tích to lớn mà ông làm được khiến người dân ai ai cũng cảm phục. Bởi vậy, trong lịch sử Trung Hoa, thanh danh của Đào Chú được xếp ngang với Lâm Tắc Từ.
Nếu ngược thời gian, tìm hiểu về gia tộc những đời trước của Đào Chú, chúng ta sẽ không thể không cảm thán rằng: “Đời trước tích đức dày, không thể không ảnh hưởng đến vận của đời sau.”!
Vào triều nhà Minh, binh vệ ở vùng quê rất nghiêm khắc. Người nào trộm cắp mà người ta bắt được thì sẽ bị xử bằng hình phạt dìm nước đến chết. Lần ấy, một tên trộm bị bắt giữ, đúng lúc thái cao tổ của Đào Chú là Hàm Công đi qua. Kẻ trộm cầu xin: “Xin ân công cứu tôi, tôi nguyện sẽ không bao giờ làm kẻ ăn trộm nữa”. Hàm Công liền bỏ ra khoản tiền trả cho người ta để cứu giúp kẻ trộm. Vì ông lo lắng rằng tên trộm sẽ không thể “tay làm hàm nhai” nên đã cấp cho người này một chiếc thuyền nhỏ để mưu sinh.
Cả đời, Hàm Công đã bố thí cho người nghèo tám chiếc thuyền để trợ giúp họ có phương tiện làm việc kiếm sống. Hàng ngày, mỗi khi ra khỏi nhà, Hàm Công đều mang theo một chiếc giỏ nhỏ đựng những vật sắc nhọn mà ông nhặt được trên đường, để người đi đường không bị dẫm phải.
Cụ của Đào Chú là Hành Công cũng là một người có đạo đức cao đẹp. Vào một ngày trời lạnh giá, có một người đã lẻn vào nhà ông để trộm gạo. Lúc ấy, cụ của Đào Chú biết nên đã lần theo dấu tuyết và đi đến cửa nhà người này. Ông biết rõ người này là người có nhận thức nên thông cảm cho gia cảnh nghèo khó của người này, lặng lẽ quay về nhà.
Sự việc ấy xảy ra, ông không bao giờ nhắc tới một lần nào trong đời. 30 năm sau, vợ của ông kể chuyện này với con cháu nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến tên của người trộm. Một lần, ở quê nhà của Đào gia bị hỏa hoạn, vợ của Hành Công đã lấy lương thực trong kho thóc của gia đình đến cứu trợ những gia đình bị nạn.
Ông nội của Đào Chú cũng là người có tính tình đạm bạc, không tham lam, bởi vì không kinh doanh nên hoàn cảnh gia đình cũng bình thường. Một lần, ông đi đến bờ sông thì nhặt được tiền.
Ông ngồi đó đợi một ngày thì thấy một người hớt hải chạy tới, mặt vàng nhợt nhạt, lo lắng tìm kiếm. Bộ dạng của người này vô cùng khổ sở, bi thương.
Lượng Công hỏi người này, người này trả lời: “Tôi đi làm thuê ở xa mấy năm chưa về nhà, trong nhà lại có mẹ già. Nay đã tích lũy được chút tiền nên muốn trở về để phụng dưỡng mẹ già thì lại đánh rơi mất hết tiền, vì thế mà trong lòng rất đau buồn.”
Sau khi hỏi số tiền mà người này mất, tất cả đều đúng, vì thế Lượng Công đem túi tiền trả cho người này. Người này vô cùng cảm kích, muốn tặng lại cho ông nửa số tiền ấy, nhưng Lượng Công nói: “Nếu tôi muốn được chia tiền thì đã không ngồi đây đợi cậu rồi.” Nói xong, ông bèn từ biệt người kia và rời đi.
Đến đời cha của Đào Chú là Đào Tất Thuyên cũng rất chú trọng đến việc hành thiện, giúp người, tích đức. Tổ tiên mấy đời của Đào Chú đều coi trọng làm việc thiện, cho nên, huyện An Hóa mới xuất sinh ra một Đào Chú danh tiếng lẫy lừng như vậy.
Mai Trà biên dịch