Chọn ngày cưới và nguồn gốc lễ cưới, hỏi

Qua tham khảo các tài liệu và tư liệu để lại, chưa thấy tài liệu nào mô tả về nguồn gốc và bắt nguồn của phong tục truyền thống mang ý nghĩa trọng đại của đời người này,  và dân gian vẫn thường gọi là lễ ăn hỏi và lễ rước dâu. Lễ cưới, hỏi của người Việt thường phải xem ngày tốt để tiến hành các thủ tục như ngày ăn hỏi, ngày rước dâu về nhà chồng. Trước khi cưới, hỏi các cặp vợ chồng tương lai cũng như các bậc cha mẹ hai bên cô dâu chú rể rất chú trọng xem ngày tháng cưới hỏi để cho hợp tuổi.

Tục lệ cưới xin của dân tộc La Hủ

Lễ na-nhí, tức lễ dạm hỏi như vùng xuôi, thường vào buổi tối. Ông "mối" cùng bố mẹ và anh em nhà trai sang nhà gái để "có lời". Lễ vật là rượu và một thứ "quà quý" của rừng - ("quà quý" này nhất thiết phải có thịt sóc rừng). Qua trò chuyện, nhà gái thấy bằng lòng thì hai bên cùng uống rượu, nhắm thịt sóc.

Nghi thức cưới của người Lô Lô

Cuộc sống đã có nhiều thay đổi nhưng tín ngưỡng của đồng bào Lô Lô (Hà Giang) vẫn còn giữ được những nét sinh hoạt độc đáo và giàu bản sắc của cư dân bản địa nơi địa đầu của vùng đất phía Bắc. Cũng giống như các dân tộc khác, với người Lô Lô, việc cưới hỏi là một sự kiện vô cùng trọng đại. Theo tập quán cổ truyền, nhà trai phải nhờ bốn người làm mối gồm hai nam, hai nữ, tốt nhất là được hai cặp vợ chồng song toàn. Chọn được ngày tốt, những người làm mối này mang hai chai rượu và lễ vật đến dạm hỏi. Nếu nhà gái đồng ý thì làm cỗ và dùng hai chai rượu đó uống rượu và bàn định ngày cưới. Đồ thách cưới bao gồm gạo nếp, gạo tẻ, thịt lợn, rượu… để dùng cho tiệc cưới, ngoài ra còn có váy, áo, vòng tay, vòng cổ cho cô dâu, thậm chí còn thách cả bạc trắng để làm của hồi môn.

Nghi thức hôn lễ của người Chăm An Giang

Ở An Giang hiện có hơn một vạn người dân tộc Chăm(khoảng 13.700 người), sống chủ yếu ở 4 huyện, thị : Châu Phú, Tân Châu, An Phú, Châu Thành. Nghề nghiệp chủ yếu là trồng lúa nước, mua bán nhỏ và làm thủ công, nổi tiếng là dệt thổ cẩm(Châu Người Chăm thường sinh sống theo tộc họ, tôn giáo, tập trung trong paley Chăm(làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, có một đơn vị quản lí của làng là Hội đồng phong tục và Po paley (Trưởng làng), trong đó, Po Paley là người đóng vai trò rất quan trọng. Tuy có cùng ngữ hệ với người Chăm miền Trung, song một số người nói và nghe được tiếng Khmer. Họ luôn sống gắn bó, hoà nhập vào cộng đồng các dân tộc anh em và giữ gìn bản sắc văn hoá riêng. Người Chăm An Giang định cư rải rác từ biên giới Việt Nam -Campuchia, chạy dài theo sông Hậu và sông Khánh Bình chảy xuống hợp nhau ở Tam Giang thị xã Châu Đốc, rồi đổ xuống xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú.

Lễ cưới hỏi của người Dao, Điện Biên

Ở tỉnh Điện Biên, dân tộc Dao (hay có nơi còn phiên âm là Dạo) sống nhiều tại địa bàn huyện Tủa Chùa, gồm 2 loại: Dao tiền và Dao quần chẹt (chặt). Trước đây, khi diễn ra lễ ăn hỏi người Dao chia thành 3 mức giá tùy thuộc vào cấp độ giàu nghèo của nhà gái để thách cưới nhà trai: nhà giàu tương ứng với 42 lạng bạc (cân tiểu ly), trung bình: 31 lạng, nghèo: 24 lạng. Mỗi mức giá cũng tương đương với giá trị của hồi môn do nhà gái cho cô dâu mang về nhà chồng.

Nghi lễ đám cưới của người Nùng, Bắc Kạn

Hôn nhân của người Nùng ở Bắc Kạn là hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên nhà chồng. Lễ cưới thường được tổ chức vào mùa khô. Trước hôm cưới nhà trai mang lễ vật gồm thịt lợn, rượu, gạo… đến nhà gái theo yêu cầu. Khi đi đón dâu nhà trai gồm có chú rể, phù rể, ông mối…. Ông mối là người rất quan trọng. Bởi theo quan niệm của người Nùng đôi vợ chồng trẻ có hạnh phúc giàu có hay không phụ thuộc rất nhiều vào ông mối. Khi xuất hành đến nhà gái, chú rể thắp hương vái lạy trước bàn thờ tổ tiên rồi đi trước, tiếp đến là 2 cô đón dâu và cuối cùng là ông mối.

Lễ cưới của người Mông - Lào Cai

Người Mông ở Cát Cát có ba nghi lễ cưới ở cung bậc khác nhau: Cưới thường, cưới trung và cưới to (Đại cưới). Trong các phong tục tập quán của người Mông thì việc cưới xin để lại những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của người Mông nhiều hơn cả. Đám cưới của người Mông thường được tổ chức vào mùa xuân hay cuối đông vì đồng bào kiêng những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của nhười Mông cũng tuân theo những lễ nghi như dạm hỏi, ăn hỏi (hẹn cưới) và lễ đón dâu.

Lễ cưới của dân tộc M’nông Preh ở Tây Nguyên

Lễ cưới của dân tộc M’nông Preh là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mang đậm bản sắc riêng biệt của người M’nông. Lễ cưới M'Nông là một nghi lễ của người đồng bào dân tộc M'Nông Preh. Khi chàng trai tìm được cô gái vừa ý, chàng tặng cô gái một cái lược, một chuỗi hạt hoặc một vòng đeo tay để làm tin.

Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang, tính sao đây?

Đó là trường hợp "Ưu hỷ trùng phùng". Vui và buồn dồn vào một lúc. "Sinh hữu hạn, tử vô kỳ", cuộc đời thì có hạn nhưng ai biết trước chết vào lúc nào. Theo lễ nghi thì khi trong nhà còn tang, trên đầu còn có vành khăn trắng, nhất là đại tang thì tránh mọi cuộc vui.

Bánh su sê hay bánh phu thê?

Trong lễ cưới có nhiều lễ vật, nhưng không thể thiếu bánh "Su sê", nguyên xưa là bánh "Phu thê", một số địa phương nói chệch thành bánh "Su sê"

Cách chọn ngày cưới...!

Chọn ngày cưới là chỉ việc chọn Ngày, Tháng, Năm với ý nghĩa may mắn, có lợi không có hại, là truyền thống lâu đời của dân tộc ta. "Tránh voi chẳng xấu mặt nào", "Có kiêng có lành" là câu nói rất quen thuộc của chúng ta.

Đây là phương pháp rất phức tạp và đặc biệt, và cũng là việc cần chuẩn bị đầu tiên cho lễ cưới.

Thông thường lấy can chi lịch pháp làm cơ sở, kết hợp thêm với Bát quái, Cửu tinh, Ngũ hành,... để tính toán, từ đó chọn ra ngày thích hợp, tìm lành tránh dữ.

Có ngày tốt hay xấu không?

Viết về phong tục cổ truyền mà cố tình lảng tránh vấn đề này, ắt không thoả mãn yêu cầu của số đông bạn đọc, vì lễ cưới, lễ tang, xây nhà dựng cửa, khai trương, xuất hành... còn nhiều ngươi, nhiều nơi chú trọng ngày lành. Đó là một thực tế. Ngặt vì có một số người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan; một số khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc mua con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh...