Thể nghiệm tâm lý liên kết giữa huyễn cảnh và thực tế? Nguyên thần của con người trong giấc mộng liệu có thể rời khỏi thân thể, xuyên việt thời không?
Trước khi bắt đầu câu chuyện hôm nay, chúng ta hãy tìm hiểu khái niệm “Siêu tâm lý học” (Parapsychology).
Thuật ngữ “siêu tâm lý học” được cho là do nhà triết học, tâm lý học và mỹ học người Đức Maximilian Dessoir đề xuất. Ông đã sáng tạo ra thuật ngữ “siêu tâm lý học” trong một bài báo trên một tạp chí tiếng Đức xuất bản năm 1889, vì cảm thấy rằng cần phải tạo ra một khoa tâm lý học liên quan đến “các hiện tượng tâm lý vượt khỏi các sự việc phổ thông”.
Trong hồi ký của mình, Dessoir đã mô tả một thể nghiệm tâm lý thần bí khi ông 15 tuổi. Loại thể nghiệm thần bí này giống như dung hòa với vũ trụ thành nhất thể, kích phát tư tưởng triết học và ý thức tư tưởng siêu nhiên. Lần thể nghiệm thần bí đó khiến ông, sau khi trưởng thành, hình thành hứng thú cực đại đối với thuyết phiếm thần (còn gọi là phiếm thần luận, cho rằng vạn sự vạn vật là do Thượng Đế sáng tạo ra), hiện tượng tâm lý thần bí, thuật yoga phương Đông, các hiện tượng thực nghiệm cảm ứng tâm linh… Ông cũng xuất bản loạt thực nghiệm cảm ứng tâm linh thành công của riêng mình vào năm 1886. Những thực nghiệm này khiến ông chuyển biến từ hoài nghi đối với cảm ứng tâm linh sang dần dần tin tưởng.
Tuy nhiên, khi đi sâu nghiên cứu, Dessoir cũng gặp phải một số thách thức từ các nhà tâm lý học khác, khiến ông phải bảo trì một thái độ thẩm thị nhất định đối với chính các thành quả nghiên cứu “siêu tâm lý học” của mình. Từ bối cảnh văn hóa đương thời mà chúng ta biết, phương pháp mà những nhà nghiên cứu hiện tượng tâm linh thần bí sử dụng là phương pháp khoa học thực chứng, yêu cầu phải xây dựng một mô thức lý luận khoa học hợp lý, điều này đương nhiên khiến cho những nghiên cứu tâm lý như của Dessoir gặp phải rất nhiều nút thắt và hạn chế.
Mặc dù rất nhiều hiện tượng được nghiên cứu bởi bộ môn “siêu tâm lý học” phải chịu nhiều tranh nghị, tình huống nghiên cứu lúc khởi lúc trầm, nhưng nghiên cứu đã dần dần được triển khai và vẫn đạt được những bước phát triển đáng kể. Hiện tại, đã có các đơn vị nghiên cứu siêu tâm lý học ở hơn 30 quốc gia, rất nhiều nghị đề của siêu tâm lý học không ngừng mở rộng, cũng xuất bản các loại tạp chí nghiên cứu, được mọi người chú ý. Những thứ chúng ta biết như: cảm tri siêu cảm quan, cảm ứng tâm linh, dự tri, thiên lý nhãn, thể nghiệm cận tử v.v. đều là bí ẩn chưa có lời giải.
Trong thế kỷ 20, có một nữ sĩ người Mỹ: bà Louisa Ella Rhine (09/11/1891─17/03/1983), tuy nhận bằng tiến sĩ thực vật học, nhưng đóng góp nổi bật nhất của bà lại là trong lĩnh vực “siêu tâm lý học”, hậu nhân gọi bà là “Đệ nhất phu nhân siêu tâm lý học”.
Bà Rhine ban đầu cùng chồng làm việc tại một viện nghiên cứu thực vật ở bang New York, nghiên cứu các hiện tượng sinh lý của hoa và cây. Giữa năm 1923 và 1924, bà Rhines đã tham dự một bài giảng đặc biệt của Sir Arthur Conan Doyle liên quan đến vấn đề nghiên cứu thông linh và thuật chiêu hồn, bài giảng này đã cải biến hứng thú về chủ đề nghiên cứu khoa học của bà. Bởi vì, khi nghiên cứu đặc tính sinh lý và hiện tượng sinh mệnh của thực vật, họ vấp phải “yêu cầu cực đoan về tính khách quan, cho đến sự hạn chế của phương diện tinh thần trong khoa học lý tính”. Những thái độ khoa học và phương pháp khoa học này đều không cách nào giải quyết được những vấn đề lớn hơn, vì vậy trong thâm sâu nội tâm họ luôn đặt ra một câu hỏi: “Nhân loại của chúng ta rốt cuộc là gì?” (What we human beings really are?)
Bà Rhines quyết định chuyển chủ đề nghiên cứu. Bằng cách này, cả hai vợ chồng họ đều bước vào lĩnh vực nghiên cứu “siêu tâm lý học”. Sau đó, họ cũng sáng lập “Quỹ nghiên cứu bản chất của con người” (the Foundation for Research on the Nature of Man – FRNM), nhằm bảo đảm tài trợ dài hạn cho nghiên cứu liên tục của họ về “hiện tượng siêu tâm lý học” và các nghiên cứu tâm lý học khác.
Bà Rhine đã thu thập một số lượng lớn các ghi chép trực tiếp về các hiện tượng siêu tâm lý học, rất nhiều phương diện trong số đó là những bí ẩn chưa được giải đáp liên quan đến “mộng cảnh” trong giấc mơ.
Chúng tôi đã đọc một số “mộng cảnh” trong nghiên cứu hiện tượng siêu tâm học do bà Rhine thu thập, bà đã cố gắng sử dụng các lý luận tâm lý mà người đương thời có thể lý giải được để giải thích chúng từ nhiều góc độ khác nhau. Con người ngày nay nhìn vào lý luận này luôn cảm thấy khó nắm bắt, thậm chí có cảm giác như đang trong sương mù. May mắn thay, những câu chuyện liệt kê nhiều mộng cảnh kỳ dị mà bà đã sưu tập vẫn hoàn toàn được bảo lưu, và những ghi chép ban đầu về các hiện tượng tâm lý này đã cung cấp những tài liệu chân thực nhất, cho phép các thế hệ sau tiến một bước nghiên cứu.
Chúng ta hãy gạt bỏ các ràng buộc của lý luận trước đây sang một bên, từ những ghi chép mộng cảnh nguyên thủy nguyên bản nhất, sẽ phát hiện, những câu chuyện mộng cảnh được ghi lại này có lẽ vượt rất xa hiện thực mà chúng ta có thể tự mình tưởng tượng.
Trong những tình huống bình thường, khi các nhà siêu tâm lý học chuyên nghiệp phương Tây tuyển viết và công bố một số báo cáo về giấc mơ của một số cá nhân, để tránh bị lộ quyền riêng tư hoặc nguyên do ở các phương diện khác, họ sẽ giấu tên thật của các phóng viên và nhân chứng. Vì vậy, để thuận tiện, chúng tôi sẽ đặt cho họ một số biệt danh khi kể câu chuyện dưới đây.
Trong thời kỳ Thế chiến thứ hai, bà Rhine nhận được báo cáo về một giấc mơ kỳ lạ. Báo cáo đến từ một người đàn ông từng phục vụ trong Hải quân Mỹ ở Okinawa.
Vị tướng hải quân này, chúng ta hãy gọi ông là Jack. Jack đương thời phục vụ trong Hạm đội 3 Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai, chịu trách nhiệm về các vấn đề quân sự ở Okinawa.
Một ngày nọ, Jack nhận được một lá thư từ vợ, lúc đó đang ở Norfolk, Virginia (hai nơi cách xa nhau hàng nghìn dặm). Jack đọc thư của vợ, trong thư không đề cập gì đến gia đình có chuyện, hoặc bất cứ tin xấu nào liên quan đến chính vợ ông.
Tuy nhiên, không lâu sau, một ngày nọ, Jack cảm thấy tâm tình bồn chồn như thể ở nhà đã xảy ra chuyện, cảm thấy có lẽ đã phát sinh chuyện gì đó, trực cảm trong tâm lý Jack là: trong nhà không phải mọi thứ đều bình an. Jack không có nơi nào để thổ lộ, vì vậy ông chỉ nói với vị trợ lý dược sĩ trên tàu về cảm giác của mình rằng: Tôi cảm thấy trong nhà khẳng định có chuyện. Đến lượt vị trợ lý hỏi Jack: Có dấu hiệu nào cho thấy điều này xảy ra trong bức thư của vợ ngài không? Jack trả lời, nói: Thực sự không thể nhìn thấy nó trong bức thư, không có manh mối. Trong thư viết toàn là những lời vui vẻ, một số tình huống trong nhà gần đây cũng không có gì khác thường.
Jack có chút phiền muộn. Đêm đó, khi đang ngủ, Jack có một giấc mơ, trong mộng ông thấy mình trở về ngôi nhà của mình ở Norfolk. Tiếp theo, mơ thấy mình đang chèo thuyền cùng vợ và một số người bạn cũ đi câu cá. Khi đánh cá xong, họ chèo thuyền đến một bến thuyền nơi có nhiều thuyền khác đã neo đậu. Để cho thuyền cập bến thuận lợi, họ phải chen mái chèo vào giữa hai chiếc thuyền, nhưng đúng lúc đó, một cơn sóng lớn bất ngờ ập đến, người vợ đứng trên thuyền bất ngờ ngã sang một bên, bị đập vào đầu. Jack tuyệt vọng nắm lấy cánh tay vợ kéo cô trở lại thuyền. Thấy một số người đứng trên bến tàu, Jack vội hét lên: Có bác sĩ không? Những người đàn ông trên bến tàu chạy đến giúp Jack bế vợ ông lên bến tàu.
Lúc này, một người đàn ông quỳ xuống khám cho vợ của Jack và nói: Cô ấy trong tình trạng tốt, nhưng cần phải cắt bỏ amidan.
Đột nhiên, Jack giật mình tỉnh giấc, cẩn thận nhìn chiếc đồng hồ trên cổ tay.
Sau giấc mơ này không lâu, Jack nhận được một lá thư khác từ vợ nói rằng cô ấy đã cắt bỏ amidan. Bức thư cũng viết cụ thể ngày giờ thực hiện thủ thuật.
Nhìn thấy bức thư này, Jack đã rất kinh ngạc. Nguyên lai ông phát hiện, giấc mơ mình khi nằm trên chiến hạm Thái Bình Dương, thời gian nằm mơ và thời gian vợ ông mổ là hoàn trùng khớp, nghĩa là chúng xảy ra đồng thời.
Trường hợp chân thực này thường mang đến cho người ta cách nghĩ rằng giấc mơ có thể biết hoặc cảm nhận được những sự tình đang phát sinh trong thời không địa lý khác nhau thông qua cảm ứng tâm linh. Do đó, điều người ta thường nghĩ đến là năng lực cảm ứng tâm linh, hoặc là năng lực trực giác đặc biệt nội tại của người có giấc mơ đó.
Tuy nhiên, vấn đề về những giấc mơ dường như không chỉ cục hạn trong nội tại góc nhìn của tâm lý. Nếu suy nghĩ về nó một cách cẩn thận, bạn sẽ phát giác rằng giấc mơ có thể là một phương thức mà qua đó, khiến người ta có một số ý thức và cảm giác bản thân hiện thân tại hiện trường ở một nơi khác. Tuy thuyết minh này của chúng tôi có chút hơi khiên cưỡng, nhưng trường hợp này chính là nói với chúng ta, rằng mộng cảnh có thể tồn tại một phương thức hiển hiện ở một góc độ khác, đây chính là người có giấc mơ đã tiến nhập vào một thời không khác, sau đó có thể cảm thụ những sự tình đang phát sinh ở địa điểm vô cùng xa xôi.
Nói một cách đơn giản, người mơ có thể thông qua mộng cảnh mà xuyên việt cự ly về thời gian và không gian, có thể cảm thụ những sự tình đang phát sinh ở nơi cách xa ngàn dặm.
Một trường hợp tương tự cũng được ghi lại vào thời nhà Đường của Trung Quốc.
Bạch Cư Dị và Nguyên Chẩn, hai vị tài tử nổi tiếng triều Đường, sau khi cùng đăng khoa cấp đệ (ba danh hiệu hàng đầu trong kỳ thi cung đình), hai người đã kết thành bạn thân. Hai người chênh nhau 7 tuổi, nhưng tài năng và chí hướng lại hòa đồng, vậy nên tình cảm của họ như anh em ruột thịt, có cảm thụ “thiên lý thần giao”. Vậy rốt cuộc, “thiên lý thần giao” là thế nào?
Vào năm thứ tư của Đường Hiến Tông Nguyên Hòa, tức là năm 809 sau Công nguyên, Nguyên Chẩn được triều đình bổ nhiệm làm giám sát ngự sử, phụng mệnh đi sứ đến địa khu Tứ Xuyên. Đã hơn mười ngày kể từ khi Nguyên Chẩn xuất phát, ông ấy đã cách xa Bạch Cư Dị ngàn dặm.
Vào ngày đó, Bạch Cư Dị và em trai Bạch Hành Giản, cùng với Lý Tiêu Trực từ Lũng Tây cùng nhau đi du lãm sông Khúc. Gần sông Khúc có ngôi chùa Đại Từ Ân, ba người đều vào thăm quan ngôi chùa và lưu lại đó một thời gian. Mãi đến khi màn đêm buông xuống, họ mới cùng nhau đến tư trạch tu hành học Đạo của Lý Tiêu Trực. Lý Tiêu Trực sai người mang rượu đãi hai anh em họ Bạch, mọi người uống rượu rất vui vẻ. Trong bữa tiệc, Bạch Cư Dị bỗng đặt chén rượu xuống, ngừng một lúc lâu, tưởng nhớ Nguyên Chẩn, rồi thâm trầm nói: “Tôi nghĩ Nguyên Chẩn đã đến Lương Châu”. Theo đó, Bạch Cư Dị viết một bài thơ trên tường ghi lại cảm xúc trong tâm, bài thơ như sau:
Xuân lai vô kế phá xuân sầu,
Túy chiết hoa chi tác tửu trù.
Hốt ức cố nhân thiên tế khứ,
Kế trình kim nhật đáo Lương Châu
Tạm dịch:
Xuân đến chẳng xua được xuân sầu,
Rượu say vặn cành hoa đếm chén.
Chợt nhớ cố nhân đi viễn xứ,
Lịch trình hôm nay tới Lương Châu.
Hôm ấy là ngày hai mươi mốt. Khoảng mười ngày sau, một sứ thần từ Lương Châu đến thăm, mang theo một bức thư của Nguyên Chẩn, cuối bức thư là bài thơ “Kí mộng thời”, trong đó viết:
Mộng quân huynh đệ khúc giang đầu,
Dã nhập Từ Ân viện lí du.
Thuộc lại hoán nhân bài mã khứ,
Giác lai thân tại cổ Lương Châu.
Tạm dịch:
Mơ thấy huynh đệ chỗ giang đầu,
Lại vào ghé thăm chùa Từ Ân.
Thuộc hạ gọi người đi xếp ngựa,
Biết mình đã tới cổ Lương Châu.
Bài thơ trong bức thư này nói rằng vào ngày Nguyên Chẩn đến Lương Châu, ông đã mơ thấy anh em Bạch Cư Dị đến chùa Đại Từ Ân du ngoạn. Anh em Bạch Cư Dị và Bạch Hành Giản vô cùng kinh ngạc, sau đó họ kiểm tra ngày tháng trên bức thư, nó trùng khớp với ngày anh em Bạch Cư Dị và Lý Tiêu Trực đến thăm ngôi Phật tự. Có vẻ như Nguyên Chẩn trong mộng đã trực tiếp xuyên việt thời không, cùng anh em Bạch Cư Dị đến thăm chùa Đại Từ Ân.
Nếu chiểu theo cách nói về hiệu quả của cảm ứng tâm linh, Nguyên Chẩn có lẽ chỉ cảm ứng được tâm tư của một mình Bạch Cư Dị thôi. Thế nhưng, Nguyên Chẩn trong mộng cảnh nhìn thấy hai anh em Bạch Cư Dị cùng nhau đến Phật tự du ngoạn, từ góc độ giải đọc mộng cảnh mà nói, mộng cảnh này nên là một cảm giác người nằm mộng đã đích thân ở hiện trường, chứ không phải là cảm ứng tâm linh đối với một cá nhân nào đó. Chúng ta ít nhiều có thể suy luận, giấc mơ này của Nguyên Chẩn có hiệu quả giống như công năng dao thị (nhìn từ cự ly xa), cũng có điểm giống như xuyên việt cự ly thời gian và không gian, đồng thời cảm ứng được hoặc tiếp xúc được khung cảnh nơi mà anh em Bạch Cư Dị đang hoạt động.
Bạch Hành Giản cũng là một tài tử, ông hiểu rất rõ về hai người anh của mình là Bạch Cư Dị và Nguyên Chẩn, được đích thân trải nghiệm câu chuyện kỳ mộng của Nguyên Chẩn, ông rất chấn động, vì vậy đã thu thập thêm hai giấc mộng kỳ lạ khác để viết cuốn “Tam mộng kí” lưu truyền nhân thế.
Hơn nữa, chúng tôi cảm thấy, hiệu quả của hai mộng cảnh kia dường như là nguyên mẫu của những câu chuyện trong hai bộ phim mộng huyễn nổi tiếng. Hai giấc mơ đó là gì? Kỳ sau chúng ta sẽ tiếp tục nhé.
Hương Thảo.