Trong Kinh Dịch có nói, nhà tích chứa điều thiện ắt sẽ có niềm vui, nhà tích chứa điều ác ắt sẽ có tai ương. Có thể gieo “nhân” tích đức hành thiện thì lo gì không thể trổ ra “quả” phúc báo?
Phong Nhị năm 7 tuổi cha mẹ đều lần lượt qua đời, may thay tố chất thân thể của cậu tốt, dù gió rét thổi tạt vào người cũng không bị ho, mưa to trút xuống người cũng không bị cảm. Hàng ngày, cậu lên trên núi nhặt củi bán lấy chút tiền sống qua ngày, cứ thế lớn lên thành một chàng trai sức dài vai rộng.
Nói về chàng Phong Nhị này, ngoại trừ cái nghèo ra, thì những phương diện khác đều không chê vào đâu được. Người thì cao lớn vạm nỡ, một hơi khiêng hai ba trăm cân củi dễ như chơi trò trẻ con vậy, quan trọng nhất là tâm địa hiền lành, nước và củi của những người già cả neo đơn trong làng, chàng đều một mình bao hết.
Bản thân tuy nghèo, nhưng người lại trượng nghĩa, cũng thường hay dùng số tiền ít ỏi bản thân vất vả kiếm được giúp đỡ những người già này. “Phong Nhị thật đúng là con người rất tốt mà; người tốt như y thế nào cũng sẽ gặp được phúc lành”. Mọi người trong làng đều hết lời khen ngợi chàng.
Quả thật đúng như những gì mọi người đã nói. Phong Nhị nghèo, không lấy được vợ; vừa khéo một ngày kia trên đường ra chợ bán củi trở về gặp phải một thiếu nữ ăn xin bị mấy tên vô lại bắt nạt. Chàng không nhịn được, liền chạy đến gạt mấy tên vô lại đó ra. Mấy tên vô lại đó bị đánh, đều bỏ chạy cả. Hỏi thăm, mới biết cô gái này còn có một người cha già đang bị bệnh nặng; hai ngày đã không có ăn gì rồi, đang nằm trong một ngôi miếu hoang cũ rách.
Phong Nhị nghe thấy thế, liền động lòng trắc ẩn, dẫn theo cô gái quay lại chợ, mua một mớ bánh bao, còn có con gà nướng nữa, bảo cô hãy mang về cho cha mình; lại móc trong người ra một chút tiền còn sót lại, bảo cô về đưa cha mình đi khám bệnh. Cô gái dập đầu lạy tạ, nước mắt lưng tròng rời đi.
Phong Nhị mấy hôm sau đi bán củi, trên đường trở về thì bắt gặp người thiếu nữ đó, trên đầu nàng có cài bông hoa trắng. Cô gái khóc lóc thảm thiết, nói rằng, cha nàng đã mất rồi. Nàng dùng số tiền mà Phong Nhị cho hôm trước mua một tấm chiếu cuộn lấy thi thể, vẫn còn đặt trong miếu; bản thân thật không có cách nào khác, nên chỉ biết tìm đến chàng.
Nàng cũng thổ lộ, mình cũng không có chỗ để đi, xin chàng hãy thu nhận nàng. Phong Nhị cũng không nghĩ nhiều, dù sao người ta tìm đến nhờ giúp đỡ, bản thân giúp đỡ cũng là điều nên làm. Hơn nữa, một cô gái xinh xắn một thân một mình ăn xin bên ngoài, nếu chẳng may gặp phải bọn vô lại như lần trước, thì biết phải làm sao?
Thế là, Phong Nhị bèn dùng số tiền mình dành dụm được mua một cỗ quan tài cũ chôn cất cha của cô gái một cách đàng hoàng. Xong dẫn nàng về nhà. Mọi người già trong làng thấy vậy, ai nấy đều vui mừng. Đây há không phải là duyên trời tác thành là gì? Thế là tất cả cùng nhau đứng ra làm mối, cô gái đó đã trở thành vợ của Phong Nhị.
Cô gái này giống như Phong Nhị vậy, lòng dạ thiện lương, thích giúp đỡ mọi người, bao nhiêu công việc may vá cho những người già kia, cô đều tự mình nhận hết. Người trong làng đều khen không dứt miệng, nói Phong Nhị ở hiền gặp lành, nên mới gặp được một cô vợ tốt như vậy. Sau khi kết hôn, Phong Nhị lên núi săn bắt, vợ ở nhà lo liệu cơm nước, tranh thủ những lúc nhàn rỗi, làm thêm công việc may vá thêu thùa, rồi đem ra chợ bán, cuộc sống cũng dần dần khá lên. Thời đó, mọi người trong làng đều lấy Phong Nhị làm gương để dạy dỗ con mình: Có nhìn thấy chưa, các con phải biết học theo người ta, ở hiền được ông trời chiếu cố, người ta tuy có nghèo thật, nhưng ông trời lại ban cho một cô vợ tốt như thế đấy!
Ở hiền gặp lành, câu nói ấy thật đúng không sai chút nào. Phong Nhị sau khi kết hôn mãi vẫn không có con, hai vợ chồng đã tìm đến rất nhiều thầy thuốc, bài thuốc bí truyền nào cũng đều đã thử qua, nhưng vẫn không có chút dấu hiệu gì. Phong Nhị và vợ cũng không chút oán trách, bản thân không có con, thì hãy cứ xem con nhà người ta cũng như con mình mà đối đãi vậy. Đứa trẻ nào không có tiền đi học, hai vợ chồng đều chủ động tìm đến giúp đỡ; đứa trẻ nào bị ốm, cũng mua chút quà bánh đến thăm. Nháy mắt, hai người cũng đã hơn 40 tuổi, nhưng vẫn không có lấy một mụn con.
Một ngày kia, có một thầy phong thủy chuyển đến làng, mọi người đều giục Phong Nhị tìm ông ấy xem thử xem, có phải là vấn đề phong thủy hay không. Phong Nhị không chút để tâm, nhưng vợ chàng thì không ngồi yên được nữa. Gia cảnh tuy mỗi ngày một khá hơn, nhưng dưới gối không có con cái, cảm thấy ngày tháng cũng thật buồn tẻ, bèn dẫn thầy phong thủy đến mộ phần tổ tiên nhà chồng. Thầy phong thủy đến đó xem thử, không nói lời nào, ngoảnh đầu bỏ đi.
“Rốt cuộc có chuyện gì thế, ông hãy cho tôi biết đi?”. Vợ Phong Nhị sốt ruột. “Đúng đấy, tiên sinh, ông xem, đã mời ông đến rồi, ít nhiều cũng nên chỉ điểm cho người ta một chút, thế mới phải chứ?”. Người trong làng cũng nói.
Thầy phong thủy thở dài, nói: “Thế cũng được, nếu đã thế thì tôi cũng không khách sáo nữa, nói nhiều cũng thật có mấy lời không hay. Mộ phần này cũng đã có mấy niên hiệu rồi, phải không?”.
Phong Nhị lắc đầu: “Tôi cũng không biết mộ phần này có từ khi nào nữa”. “Đúng thật là đã lâu lắm rồi, hẳn là không dưới 200 năm”. Một người già trong làng nói.
“Đúng vậy; đúng ra lúc mới bắt đầu, phong thủy của mộ phần này vốn không tệ, mọi người xem, mộ phần của tổ tiên ngay trên khu đất cao hơn lòng sông trước mặt, đó thật là phong thủy vừa tốt lại vừa chắc chắn nhất, dòng dõi hưng vượng từ đời này sang đời khác. Nhưng đến đời thứ ba, khu đất quanh mộ phần này bắt đầu bị lún xuống, lúc này theo lý là nên di dời ngôi mộ đi, nếu không, chỉ có thể đời đời đơn truyền. Đến đời gần đây nhất, khu đất xung quanh đều đã hoàn toàn sụt lún xuống, thấp hơn so với mặt sông trước mặt, đây là tuyệt địa rồi, hết cách, thật sự hết cách rồi, mệnh đã định sẵn là một đời cô đơn trơ trọi, không con không cháu!”
“Tiên sinh, xin ông hãy nghĩ cách giúp vợ chồng tôi, nếu không, ông xem, chúng tôi sẽ di dời mộ phần này vậy?”. Vợ Phong Nhị lo lắng.
“Ài, nếu như có thể di dời được, thì tôi từ sớm đã nói với vợ chồng cô cậu rồi, bây giờ hoàn toàn không thể động đến! Nếu tôi xem không nhầm, người trong mộ phần này qua đời ít nhất đã 200 năm rồi! Nếu di dời sẽ kinh động đến tiền nhân! Huống hồ, quanh khu này ít nhất cũng có hơn trăm ngôi mộ, nếu muốn di dời, thì đều phải di dời hết, nếu không, tổ tiên không bằng lòng, không chừng sẽ còn giáng đại họa nữa!”.
“Tiên sinh nói quả không sai, nhà họ Phong vốn là thế gia vọng tộc, đến đời ông cố của Phong Nhị, thì chính là đời đời đơn truyền. Vợ chồng Phong Nhị trước nay đều luôn hành thiện tích đức, đều là người tốt, ông hãy giúp đỡ họ đi”. Những người già cũng nài nỉ thầy phong thủy.
Thầy phong thủy lắc lắc đầu: “Đó thì phải xem mệnh trời rồi! Tôi thật không có cách nào! Nhưng mà, mọi người tốt nhất là chớ ôm giữ niệm đầu này, trừ phi một ngày nào đó, khu đất này tự động cao lên rồi, khi đó phong thủy cũng sẽ tốt trở lại, nhưng nghĩ cũng thật khó lắm, trừ phi kỳ tích xuất hiện thôi!”.
Vợ của Phong Nhị trở về nhà, thở ngắn than dài. Phong Nhị thì ngược lại không có để tâm, lúc cần lên núi thì lên, lúc cần ra chợ thì vẫn ra chợ, nguyên từ đầu chàng đã nghĩ thông, trong mệnh đã định sẵn cả rồi, hà tất phải nghĩ nhiều!
Nếu trong mệnh đã định sẵn không có con cái, thì bản thân cứ đem số tiền dành dụm được ra làm đường, xây đắp một con đường từ làng thông lên trên núi, đường nếu sửa xong rồi, có thể đánh xe lên trên đó, mọi người lên núi kiếm củi cũng sẽ thuận tiện hơn nhiều, không cần phải tự cõng xuống núi. Khi đó, người già, phụ nữ cũng đều có thể lên núi kiếm củi rồi.
Vào một ngày mùa hè năm thứ hai, sau khi đường sửa xong, trời giáng một cơn mưa to như thác đổ, cơn mưa kéo dài ba ngày ba đêm. Sau khi trận mưa bão qua đi, vợ của Phong Nhị bỗng có mang! Phong Nhị vui mừng đến chạy báo tin vui khắp chợ, tuổi già được con, thật là niềm vui sướng biết bao! Vậy là chàng đã có thể quẳng bỏ lời kết rằng chàng đời này ắt phải tuyệt tử tuyệt tôn rồi.
Vị thầy phong thủy đó sau khi tin nghe vợ Phong Nhị mang thai, liền chạy đến mộ phần nhà Phong Nhị xem thử. Thì ra bao nhiêu đất đá trong trận mưa bão từ trên núi đổ xuống khiến cho khu đất quanh ngôi mộ đó giờ đã cao hơn mặt sông trên cả một mét.Thầy phong thủy thở dài: Quả thật là nghìn năm khó gặp! Thật đúng là nghìn năm khó gặp! Ý trời, thật đúng là ý trời mà! Xem ra, con người ta, ngoài việc tích âm đức ra, cũng cần phải cố gắng tích dương đức nữa!
Đứa con của Phong Nhị từ nhỏ đã thông minh lanh lợi, tuy được bố mẹ cưng chiều, nhưng trước sau lại không hề vì được cưng chiều mà tỏ ra kiêu ngạo. Còn nói về học hành thì rất chuyên tâm. Năm 18 tuổi đã thi đậu cử nhân. Về sau lại về lại huyện làm huyện lệnh, sinh được ba trai hai gái. Từ đây, gia đạo nhà họ Phong đã dần hưng vượng trở lại. Phong Nhị cùng vợ, đều sống đến hơn 90 tuổi, đều không bệnh mà mất.
Có một thầy phong thủy nọ chuyên xem mộ phần, nhà cửa cho nhiều người, kết quả rất chính xác. Sau khi mọi người tới xem và điều chỉnh phong thủy như lời ông thì gia đình đều trở nên phú quý. Tuy nhiên con cháu ông ngược lại đều không có một ai giàu có, cũng không có ai làm quan.
Một ngày nọ, người con trai hỏi ông: “Thưa cha, cha là một thầy phong thủy nổi tiếng vậy mà nhà ta lại không có một ai làm quan? Sao cha không tìm cách điều chỉnh một chút để nhà ta trở nên giàu có và cũng có thể xông pha chốn quan trường?“.
Thầy phong thủy nói: “Ta có thể làm được, tuy nhiên cần các con làm theo lời ta dặn. Trưa mai là ngày tốt giờ tốt, ba anh em con hãy ra mộ của ông nội để làm lễ sau đó chôn trấn vật mà cha đã gói cẩn thận này ở hướng Tây Bắc. Vài năm sau nhà ta sẽ có người làm quan. Tuy nhiên sau khi chôn không được nói một lời xui xẻo nào mà phải đi thẳng về nhà“.
Trưa hôm sau, ba người con của thầy phong thủy đi ra mộ và làm theo đúng những gì cha dặn. Trên đường về bỗng nhiên gặp một người ăn mày. Người ăn mày nói với họ: “Cho tôi xin chút gì ăn hay cho tôi xin chút tiền đi“. Người anh cả liền đá cho người ăn mày một cái và nói: “Thật xui xẻo lại gặp phải một kẻ ăn xin“.
Khi ba người con về tới nhà, vị thầy phong thủy hỏi dồn: “Trên đường các con đã gặp ai? Chắc chắn các con đã nói lời xui xẻo phải không?“. Ba anh em nọ chỉ biết thừa nhận. Suy ngẫm hồi lâu, vị thầy phong thủy nói với con: “Là các con không có mệnh làm quan, cho dù cha có tinh thông thuật số phong thủy tới đâu cũng không thể làm trái với ý Trời. Người ăn mày mà các con vừa gặp khi nãy chính là linh hồn của ông nội các con. Các con đối đãi với tổ tiên như vậy làm sao có phúc phần để làm quan được”.
Cổ nhân giảng “Kinh Dịch là mưu sách của người quân tử, chứ không phải mưu cầu của kẻ tiểu nhân”. “Người phúc ở nơi phúc địa”, còn như người không có phúc đức, bản thân cũng không kham nổi phúc địa đó, ắt cũng sẽ bởi các loại nguyên nhân, mà lỡ mất dịp may.
***
Trong “Liễu Phàm Tứ Huấn” có viết rằng: Có nhà họ Lâm ở huyện Phủ Điền, tỉnh Phúc Kiến, trong số các trưởng bối có một bà cụ thích làm việc thiện, thường làm sủi cảo cho người nghèo ăn, chỉ cần có người tìm đến, bà đều không từ chối. Có một vị Tiên nhân biến thành một vị đạo sĩ, mỗi ngày đều tìm đến xin bà sáu bảy cái bánh, bà lão mỗi ngày đều vui vẻ cho ông, ba năm liền đều như vậy, vị Tiên nhân mới biết bà làm việc thiện là xuất phát từ tấm lòng chân thành.
Vị đạo nhân đó liền nói với bà rằng: “Tôi đã ăn sủi cảo của bà trong ba năm, thật không biết nên phải báo đáp bà như thế nào đây? Như vậy đi, phía sau nhà bà có một khu đất phong thủy rất tốt, mai này sau khi bà chết rồi hãy dặn người nhà an táng ở đó, con cháu đời sau làm quan, chính là nhiều giống như một thăng vừng vậy”.
Về sau, bà cụ qua đời con trai bà lão chôn cất đúng như nơi vị Tiên nhân chỉ điểm. Một đời sau khi chôn cất, chính là có 9 người đỗ đạt tiến sĩ, những người sau này làm quan lớn càng nhiều không đếm xuể. Bởi vậy, Phúc Kiến lại có lời đồn “không có họ Lâm thì không mở bảng vàng”, ý là nói mỗi lần công bố kết quả thi, trên bảng đều sẽ có người họ Lâm.
Thông qua đối chiếu, chúng ta không khó để nhìn ra, những người không có phúc đức và lại không biết bố thí, dù có muốn cầu giàu sang thế nào cũng không cầu được. Còn người hành thiện tích đức, phúc đức sâu dày, ắt có phúc báo; không cầu phúc lành, mà phúc lành tự đến bên.
Hiện nay rất nhiều người, không biết bố thí, cho đi là gì? Thôi cũng cho qua, đáng sợ hơn là, lòng tham không có chỗ dừng. Bản thân không muốn cho đi bất cứ thứ gì, lại muốn “ngồi mát ăn bát vàng”. Hoặc là những thứ nên có được vốn không thuộc về bản thân, lại một mực muốn chiếm giữ cho bằng được.
Người xưa giảng hai chữ “cho đi”, là có quan hệ nhân quả trong đó. Nếu muốn có được, trước hết cần phải biết cho đi. Trước cho đi, đó là nhân; sau đắc được, đó là quả. Cũng như một nhà nông, nếu muốn có được lương thực bội thu vào ngày thu, trước hết cần phải chăm chỉ gieo giống vào ngày đầu xuân. Mùa xuân không gieo hạt giống nào, thử hỏi mùa thu sao có được vạn cân lương thực! Nếu không có gió xuân, thì sao có được mưa thu.
Phật nói con người có ba loại độc: Tham, sân, si. Hành thiện, bố thí, cho đi, là có thể chặt đứt tham niệm. Nếu muốn tu thiện, thì phải gieo trồng thiện căn. Gieo trồng thiện căn mới sẽ đắc được thiện quả, mới sẽ có được phúc đức. Đáng tiếc là, chúng sinh ngu muội vô tri, lòng tham rất nặng, muốn có được lương thực, trong khi ngay đến cả một hạt giống cũng không chịu gieo xuống, vẫn còn ở đó chìm trong “giấc mộng kê vàng”.
Như thế, thử hỏi phúc đức và phúc báo sao có thể đến với họ được đây? Trong Kinh Dịch có câu: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”, nghĩa là, nhà tích chứa điều thiện ắt sẽ có niềm vui, nhà tích chứa điều ác ắt sẽ có tai ương. Có thể gieo “nhân” tích đức hành thiện thì lo gì không thể trổ ra “quả” phúc báo?
Phi Long biên dịch